Đường Tống bát đại gia, là danh xưng chung chỉ tám vị văn sĩ chuyên cổ văn nổi danh, gồm hai vị Hàn Dũ, Liễu Tông Nguyên đời Đường và sáu vị đời Tống gồm Âu Dương Tu, Tô Tuân, Tô Thức, Tô Triệt, Tăng Củng,Vương An Thạch. Người đầu tiên gộp chung tám vị là Chu Hữu thời Minh sơ, tập hợp văn bài của hai vị Hàn, Liễu cùng các bài ông cho là ngang hàng kết tập thành quyển “Bát tiên sinh văn quyển”. Sau, thời Minh trung có thêm Đường Thuận Chi soạn “Văn Biên”, cũng lấy văn của tám vị trên làm chuẩn cho Đường Tống. Minh mạt có thêm Mao Khôn theo ý hai vị Chu, Đường, tập hợp văn chương lưu lại của 8 vị kể trên thành quyển “Đường Tống bát đại gia văn sao”, từ đó định thành danh “Đường Tống bát đại gia”.
方山子傳 (蘇軾) – Phương Sơn Tử truyện – Tô Thức
Tô Thức 蘇軾 (1037-1101) tự Tử Chiêm 子瞻, Hoà Trọng 和仲, hiệu Đông Pha cư sĩ 東坡居士, người đời thường gọi là Tô Đông Pha 蘇東坡, thuỵ Văn Trung 文忠, người My Sơn (nay thuộc tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc). Ông từng làm quan Thông phán, Thái thú. Cha là Tô Tuân, em là Tô Triệt, đều là các đại gia thi văn, đương thời người ta gọi là Tam Tô. Thái độ của ông tiêu diêu tự tại, lạc quan phấn chấn, tuy thăng giáng nhiều lần trên con đường hoạn lộ song ông vẫn phó mặc tự tại, đọc sách làm vui và là người giàu tình cảm, cho nên cuộc đời của ông vừa hào phóng lại vừa tình tứ. Ông là người có nhiều tác phẩm phổ biến và được người đời lưu truyền nhất trong Đường Tống bát đại gia, mặc dù là một Nho sĩ nhưng ông thấu rất sâu tinh thần Phật, Lão. Ông sáng tác được 4000 bài thơ, 300 bài từ, tản văn rất nhiều bày hay (như Phóng Hạc đình ký, Tiền Xích Bích phú, Hậu Xích Bích phú, v.v…). Tác phẩm ông lưu lại có bộ Đông Pha văn tập 60 quyển, bộ Đông Pha thi tập 25 quyển, bộ Đông Pha từ 1 quyển, bộ Cửu Trì bút ký 2 quyển, bộ Đông Pha chí lâm 5 quyển. Ngoài ra, vâng lời dặn dò của cha lúc lâm chung, ông viết tiếp cuốn Dịch truyện mà cha bỏ dở, rồi viết thêm những cuốn: Luận ngữ thuyết, Thư truyện để truyền bá đạo Khổng. Bài tản văn Phương Sơn Tử truyện thể hiện tinh thần tự do tự tại, thuận theo tự nhiên trên tinh thần Lão – Trang, qua nhân vật Phương Sơn Tử, ta thấy được cách sống cũng như cách tư duy của Tô Thức trong thời kỳ biến động của con đường quan trường.
方山子,光、黃間隱人也。少時慕朱家、郭解爲人,閭里之俠皆宗之。稍壯,折節讀書,欲以此馳騁當世,然終不遇。晚乃遁於光、黃間,曰岐亭。庵居蔬食,不與世相聞。棄車馬,毀冠服,徒步往來山中,人莫識也。見其所著帽,方聳而高,曰:“此豈古方山冠之遺象乎?”因謂之方山子。餘謫居於黃,過岐亭,適見焉。曰:“嗚呼!此吾故人陳慥季常也。何爲而在此?”方山子亦矍然,問餘所以至此者。餘告之故。俯而不答,仰而笑,呼餘宿其家。環堵蕭然,而妻子奴婢皆有自得之意。 餘既聳然異之。獨念方山子少時,使酒好劍,用財如糞土。前十九年,餘在岐山,見方山子從兩騎,挾二矢,遊西山。鵲起於前,使騎逐而射之,不獲。方山子怒馬獨出,一發得之。因與餘馬上論用兵及古今成敗,自謂一世豪士。今幾日耳,精悍之色猶見於眉間,而豈山中之人哉? 然方山子世有勳閥,當得官,使從事於其間,今已顯聞。而其家在洛陽,園宅壯麗與公侯等。河北有田,歲得帛千匹,亦足以富樂。皆棄不取,獨來窮山中,此豈無得而然哉? 餘聞光、黃間多異人,往往陽狂垢污,不可得而見。方山子倘見之歟?
Phiên âm: Phương Sơn Tử, Quang, Hoàng gian ẩn nhân dã. Thiếu thời mộ Chu gia, Quách Giải vi nhân, lư lí chi hiệp giai tông chi. Sảo tráng, chiết tiết độc thư, dục dĩ thử trì sính đương thế, nhiên chung bất ngộ. Vãn nãi độn ư Quang, Hoàng gian, viết Kì Đình. Am cư sơ thực, bất dữ thế tương văn. Khí xa mã, hủy quan phục, đồ bộ vãng lai sơn trung, nhân mạc thức dã. Kiến kỳ sở trước mạo, phương tủng nhi cao, viết: “Thử khởi cổ Phương sơn quan chi di tượng hồ?” Nhân vị chi Phương Sơn Tử. Dư trích cư ư Hoàng, quá Kì Đình, thích kiến yên. Viết: “Ô hô! Thử ngô cố nhân Trần Tháo Quí Thường dã. Hà vi nhi tại thử?” Phương Sơn tử diệc quắc nhiên, vấn dư sở dĩ chỉ thử giả. Dư cáo chi cố. Phủ nhi bất đáp, ngưỡng nhi tiếu, hô dư túc kỳ gia. Hoàn đổ tiêu nhiên, nhi thê tử nô tì giai hữu tự đắc chi ý.
Dư kí tủng nhiên dị chi, độc niệm Phương Sơn tử thiếu thời, sử tửu hiếu kiếm, dụng tài như phẩn thổ. Tiền thập cửu niên, dư tại Kì Sơn, kiến Phương Sơn tử tòng lưỡng kị, hiệp nhị thỉ, du Tây Sơn. Thước khởi ư tiền, sử kị trục nhi xạ chi, bất hoạch. Phương Sơn tử nộ mã độc sơn, nhất phát đắc chi. Nhân dữ dư mã thượng luận dụng binh cập cổ kim thành bại, tự vị nhất thế hào sĩ. Kim kỉ nhật nhĩ, tinh hãn chi sắc do kiến ư mi gian, nhi khởi sơn trung chi nhân tai? Nhiên Phương Sơn tử thế hữu huân phiệt, đương đắc quan, sử tòng sự ư kỳ gian, kim dĩ hiển văn. Nhi kỳ gia tại Lạc Dương, viên trạch tráng lệ dữ công hầu đẳng. Hà Bắc hữu điền, tuế đắc bạch thiên thất, diệc túc dĩ phú lạc. Giai khí bất thủ, độc lai cùng sơn trung, thử khởi vô đắc nhi nhiên tai? Dư văn Quang, Hoành gian đa dị nhân, vãng vãng dương cuồng cấu ô, bất khả đắc nhi kiến. Phương Sơn tử thảng kiến chi dư?
Dịch nghĩa: Phương Sơn tử là người ẩn cử ở giữa hai miền Quang, Hoàng. Thuở thiếu thời hâm mộ những người như Chu gia, Quách Giải, bọn hiệp sĩ trong làng đều tôn sùng ông. Sau khi lớn lên được một chút, từ bỏ chí hướng cũ mà bắt đầu học hành, muốn lấy đó mà rong ruổi với đời (thi triển những mong mỏi với đời), song rốt cuộc chẳng gặp vận (được trọng dụng). Do đó lúc về già bèn ẩn cử ở giữa hai miền Quang, Hoàng gọi là Kì Đình. Ở trong am ăn rau cỏ, không giao thiệp gì nữa với người đời. Vứt ngựa xe, bỏ mũ áo, đi bộ vãng lai ở trong núi, người trong núi không một ai biết ông. Thấy mũ mão ông đội, chóp mũ hình vuông mà cao vọt lên, nói rằng: “Đây phải chăng là kiểu mũ Phương sơn thời xưa còn lưu lại đấy chăng?” Nhân đó mà gọi ông là Phương Sơn tử. Ta bị biếm trích ở lại châu Hoàng, đi qua Kì Đình, vừa may gặp ông. Nói rằng: “Than ôi! Người bạn già Trần Tháo Quý Thường của tôi đây mà, cớ sao mà ông lại ở đây?” Phương Sơn tử cũng kinh ngạc hỏi tôi cớ sao lại đến nơi này. Tôi kể (rõ) nguyên do cho ông ta. Y cúi đầu không đáp, sau ngửng đầu lên mà cười, kêu tôi về nghỉ ở nhà ông, tường nát vách xiêu, thế mà vợ con tì tất vẫn đều có ý tự đắc (vui vẻ).
Ta ngạc nhiên và lấy làm lạ, trong tâm nhớ lại Phương Sơn tử hồi trẻ, ham uống rượu (tùy hứng), giỏi múa kiếm, dùng tiền như đất cát. 19 năm trước, ta ở dưới chân núi Kỳ (Phong Tường), thấy Phương Sơn tử có hai hai người cưỡi ngựa theo sau, cầm hai mũi tên, đi chơi ở Tây Sơn, chim khách bay ở phía trước, ông sai người cưỡi ngựa đuổi theo và bắn nó, không trúng, Phương Sơn tử quất ngựa tự mình tiến lên, một phát trúng phóc. Nhân đó, ông với tôi ngồi trên lưng ngựa luận phép dùng binh và chuyện thành bại xưa nay, tôi tự cho ông là một bậc hào kiệt ở đời. (Việc ấy) tính đến nay chỉ như mới mấy ngày trôi qua thôi, (thế mà) sắc diện tinh anh dũng mãnh, hãy còn thấy ở trên nét ngài, có vẻ gì (sao có thể) là ẩn sĩ trong núi đâu (được)? Thế nhưng Phương Sơn tử là dòng dõi công thần thế gia (gia đình Phương Sơn tử từ thế hệ này sang thế hệ khác là những người có công lao), đáng lẽ là được làm quan, nếu ông tòng sự từ lúc đó, nay đã vinh hiển vang danh. Song gia đình ông ở Lạc Dương, vườn tược phòng ốc tráng lệ ngang bằng với bậc công hầu. Hà Bắc có ruộng, mỗi năm thu được ngàn tấm lụa, (nhiêu đó) cũng đủ để ông giàu sang vui sướng. (Thế nhưng) Ông đều bỏ đi chẳng lấy, một mình đến trong chốn thâm sơn cùng cốc, việc này há nếu không có điều sở đắc thì có thể được như thế chăng?
Ta nghe ở hai vùng Quang, Hoàng có nhiều dị nhân, thường thường giả điên bôi nhọ mình, (người thường) không thể thấy được họ. Phương Sơn tử có lẽ vô tình thấy được họ chăng?
梅聖俞詩集序 (歐陽修)(Mai Thánh Du thi tập tự – Bài tự cho tập thơ Mai Thánh Du của Âu Dương Tu)
Âu Dương Tu 歐陽修 (1007-1072) tự Vĩnh Thúc 永叔, hiệu Tuý ông 醉翁, Lục Nhất cư sĩ 六一居士, thuỵ hiệu Văn Trung 文忠, người huyện Lư Lăng tỉnh Giang Tây, ông là một vị cổ văn gia, lịch sử học gia có tiếng, lại là một thi nhân uyên bác, tài tình, có nhiều tác phẩm để đời. Ông hiện còn lại Lục nhất từ 3 quyển. Âu Dương Tu làm quan địa phương hơn 10 năm trời. Sau Tống Nhân Tông vì quá mến mộ văn tài nên mới triệu ông về kinh thành, phong làm Hàn lâm học sĩ. Sau khi nhận chức, Âu Dương Tu ra sức đề xướng việc cải cách văn phong. Một lần, kinh thành tổ chức khoa thi tiến sĩ, ông được cử làm chủ khảo. Thấy đây là 1 cơ hội để cải cách văn phong lựa chọn nhân tài. Âu Dương Tu đọc kĩ các quyển thi, thấy quyển nào chỉ có hình thức hào nhoáng mà nội dung trống rỗng thì đánh trượt hết. Kết quả khóa thi, một số người không đỗ rất căm tức Âu Dương Tu. Một hôm, ông cưỡi ngựa đi đi ra đường, bị 1 đám thí sinh bị đánh trượt ngăn lại, ồn ào chửi mắng và gây sự. Sau nhờ có lính tuần tra đến giải tán, ông mới được vô sự. Thời gian ở Từ Châu, ngoài những giờ làm việc quan, Âu Dương Tu thường thích cùng bạn chúng du sơn lãm thủy. Trên Lang Nha Sơn có một toà đình làm nơi nghỉ cho du khách. Âu Dương Tu thường tới tòa đỉnh đó uống rượu. Ông tự xưng là “Túy ông” (ông già say) và đặt tên cho tòa đình đó là “Túy Ông đình”. Bài tản văn “Túy Ông đình ký” của ông là 1 kiệt tác được người đời truyền tụng. Bài tản văn Mai Thánh Du thi tập tự nói về người bạn thơ tài hoa Mai Thánh Du của ông, qua đó thể hiện rõ cái nhìn của ông về thơ và quan điểm cách tân thơ trong tư tưởng của ông.
予聞世謂詩人少達而多窮,夫豈然哉?蓋世所傳詩者,多出於古窮人之辭也。凡士之蘊其所有,而不得施於世者,多喜自放于山巔水涯之外,見蟲魚草木風雲鳥獸之狀類,往往探其奇怪,內有憂思感憤之鬱積,其興於怨刺,以道羈臣寡婦之所嘆,而寫人情之難言。蓋愈窮則愈工。然則非詩之能窮人,殆窮者而後工也。 予友梅聖俞,少以蔭補爲吏,累舉進士,輒抑於有司,困於州縣,凡十餘年。年今五十,猶從辟書,爲人之佐,鬱其所蓄,不得奮見於事業。其家宛陵,幼習於詩,自爲童子,出語已驚其長老。既長,學乎”六經”仁義之說,其爲文章,簡古純粹,不求苟說於世。世之人徒知其詩而已。然時無賢愚,語詩者必求之聖俞;聖俞亦自以其不得志者,樂於詩而發之,故其平生所作,於詩尤多。世既知之矣,而未有薦於上者。 昔王文康公嘗見而嘆曰:“二百年無此作矣!”雖知之深,亦不果薦也。若使其幸得用於朝廷,作爲雅、頌,以歌詠大宋之功德,薦之清廟,而追商、周、魯頌之作者,豈不偉歟!奈何使其老不得志,而爲窮者之詩,乃徒發於蟲魚物類,羈愁感嘆之言。世徒喜其工,不知其窮之久而將老也!可不惜哉! 聖俞詩既多,不自收拾。其妻之兄子謝景初,懼其多而易失也,取其自洛陽至於吳興以來所作,次爲十卷。予嘗嗜聖俞詩,而患不能盡得之,遽喜謝氏之能類次也,輒序而藏之。其後十五年,聖俞以疾卒於京師,餘既哭而銘之,因索於其家,得其遺稿千餘篇,並舊所藏,掇其尤者六百七十七篇,爲一十五卷。嗚呼!吾於聖俞詩論之詳矣,故不復云。廬陵歐陽修序。
Phiên âm: Dư văn thế vị thi nhân thiểu đạt nhi đa cùng, phù khởi nhiên tai? Cái thế sở truyền thi giả, đa xuất ư cổ cùng nhân chi từ dã. Phàm sĩ chi uẩn kỳ sở hữu, nhi bất đắc thi ư thế giả, đa hỉ tự phóng vu sơn điên thủy nhai chi ngoại, kiến trùng ngư thảo mộc phong vân điểu thú chi trạng loại, vãng vãng thám kì kì quái, nội hữu ưu tư cảm phẫn chi uất tích, kỳ hưng ư oán thứ, dĩ đạo ki quần quả phụ chi sở thán, nhi tả nhân tình chi nan ngôn. Cái dũ cùng tắc dũ công. Nhiên tắc phi thi chi năng cùng nhân, đãi cùng giả nhi hậu công dã. Dư hữu Mai Thánh Du, thiếu dĩ ấm bổ vi lại, lũy cử tiến sĩ, triếp ức vu hữu tư, khốn ư châu huyện, phàm thập dư niên. Niên kim ngũ thập, do tòng tích thư, vi nhân chi tá, uất kỳ sở súc, bất đắc phấn kiến ư sự nghiệp. Kỳ gia Uyển Lăng, ấu tập ư thi, tự vi đồng tử, xuất ngữ dĩ kinh kỳ trưởng lão. Kí trường, học hồ “lục kinh” nhân nghĩa chi thuyết, kỳ vi văn chương, giản cổ thuần túy, bất cầu cẩu thuyết ư thế. Thế chi nhân đồ tri kỳ thi nhi dĩ. Nhiên thời vô hiền ngu, ngứ thi giả tất cầu chi Thánh Du; Thánh Du diệc tự dĩ kì bất đắc chí giả, nhạo ư thi nhi phát chi, cố kỳ bình sinh sở tác, ư thi vưu đa. Thế kí tri chi hỹ, nhi vị hữu tiến ư thượng giả. Tích Vương Văn Khang công thường kiến nhi thán viết: “Nhị bách niên vô thử tác hỹ!” Tuy tri chi thâm, diệc bất quả tiến dã. Nhược sử kỳ hạnh đắc dụng ư triều đình, tác vi nhã, tụng, dĩ ca vịnh Đại Tống chi công đức, tiến chi Thanh miếu, nhi truy Thương, Chu, Lỗ tụng chi tác giả, khởi bất vĩ dư! Nại hà sử kỳ lão bất đắc chí, nhi vi cùng giả chi thi, nãi đồ phát ư trùng ngư vật loại, ki sầu cảm thán chi ngôn. Thế đồ hỉ kỳ công, bất tri kỳ cùng chi cửu nhi tương lão dã! Khả bất tích tai! Thánh Du thi kí đa, bất tự thu thập. Kì thê chi huynh tử Tạ Cảnh Sơ, cụ kỳ đa nhi dị thất dã, thủ kỳ tự Lạc Dương chi Ngô Hưng dĩ lai sở tác, thứ vi thập quyển. Dư thượng thị Thánh Du thi, nhi hoạn bất năng tận đắc chi, cự hỉ Tạ thị chi năng loại thứ dã, triếp tự nhi tàng chi. Kỳ hậu thập ngũ niên, Thánh Du dĩ tật tốt ư kinh sư, dư ký khốc nhi minh chi, nhân sách ư kỳ gia, đắc kỳ di cảo thiên dư thiên, tịnh cựu sở tàng, xuyết kỳ vưu giả lục bách thất thập thất thiên, vi nhất thập ngũ quyển. Ô hô! Ngô ư Thánh Du thi luận chi tường hỹ, cố bất phục vân. Lư Lăng Âu Dương Tu tự.
Dịch nghĩa: Ta nghe người đời nói rằng thi nhân rất ít người hiển đạt mà nhiều kẻ khốn cùng, ôi há như thế chăng? Bởi vì những bài thơ được lưu truyền trên đời, đa phần khởi sinh từ văn chương của những nhà thơ cùng khổ ngày xưa. Phàm những uẩn ức, những điều mà kẻ sĩ có được (tài học và lý tưởng) mà không được thi hành ở trên đời đều vui vẻ phóng tứ bản thân ở ngoài cõi non xanh nước biếc, ngắm nhìn hình dáng các loài sâu cá cỏ cây mây gió chim muông, thường hay tìm tòi những điều kì quái trong đó, trong lòng tích chứa nỗi ưu tư và căm phẫn, chính điều đó sẽ dấy lên nỗi oán hận, châm biếm (trong thơ), để nói ra nỗi ai oán của người quả phụ, của kẻ bề tôi nơi đất khách, mà viết về những thứ khó nói trong cõi nhân tình, đại khái nhà thơ càng khốn đốn thì thơ văn càng hay. Như thế thì không phải làm thơ có thể khiến cho nhà thơ cùng khổ mà chắc mẩm người trong cảnh khốn cùng thì sau thơ mới khéo hay.
Bạn ta là Mai Thánh Du, thuở nhỏ nhờ âm đức tổ tiên mà được bổ làm quan lại, nhiều lần tham gia thi tiến sĩ, mỗi lần (như thế) đều bị quan chủ khảo đánh rớt, chỉ làm chức quan nhỏ ở châu huyện, tất thảy đã hơn mười năm. Tuổi nay đã năm mươi, mà hãy còn nhận thư mời, làm phụ tá cho người khác, uất hận vì tài năng uẩn súc trong lòng mình không phát huy được trong sự nghiệp. Gia đình ông ở Uyển Lăng, hồi nhỏ tập tành làm thơ, từ lúc còn bé, lời thơ làm ra đã khiến cho các bậc trưởng bối phải kinh ngạc. Sau khi lớn lên, học các thuyết nhân nghĩa ở trong Lục Kinh, ông làm văn thơ, lời lẽ súc tích, cổ kính, thuần túy, không truy cầu sự cẩu thả a dua làm vui (chiều theo thị hiếu) người đời. Người đời chỉ biết ông có làm thơ mà thôi. Nhưng lúc ấy (khi nói đến thơ) bất luận là người hiền kẻ ngu, người bàn về thơ đều phải cầu cạnh Thánh Du; Thánh Du cũng cam lòng với nỗi bất đắc chí của mình, thích làm thơ để giải tỏ lòng mình, cho nên bình sinh những tác phẩm ông viết, (đặc biệt) về mặt thơ ca cực kỳ nhiều. Người đời đã biết đến ông rồi mà chưa có ai tiến cử ông với người trên (triều đình) cả.
Xưa ông Vương Văn Khang từng xem thơ ông mà than rằng: “Hai trăm năm nay chưa từng có tác phẩm nào như vậy!” Tuy (Văn Khang) biết ông rất rõ (đánh giá ông (Thánh Du) rất cao) song cũng không thể tiến cử ông được. Giả sử ông may mắn được triều đình ủy nhiệm (trọng dụng), làm những bài “Nhã”, “Tụng” để ca vịnh công đức Đại Tống, được tiến cử vào Thanh miếu (Tông miếu), mà nối gót các tác giả soạn bài tụng của Thương, Chu, Lỗ, há chẳng vĩ đại ư! Làm sao cứ khiến cho ông đến lúc già rồi vẫn bất đắc chí, mà phải làm những bài thơ của kẻ khốn cùng, mà chỉ thốt ra những lời u hoài thương cảm, các giống trùng bọ cá nước? Người đời chỉ thích cái tinh xảo trong thơ ông (khen thơ ông hay) chứ không biết ông cùng khốn đã lâu mà sắp già rồi vậy! Có thể chẳng đáng tiếc lắm ư!
Thơ của Thánh Du đã nhiều mà ông không chịu tự mình thu thập lại. Anh trai của vợ ông là Tạ Cảnh Sơ, sợ rằng thơ ông nhiều thì dễ bị thất lạc, (bèn) lấy những bài thơ ông làm từ khi ở Lạc Dương đến Ngô Hưng trở đi, biên thành mười quyển. Ta từng rất thích thơ của Thánh Du, mà lo không thể tìm được hết, hốt nhiên mừng rỡ vì họ Tạ có thể phân loại, sắp đặt, (ta cảm thấy xúc động) bèn viết bài tự xong rồi cất nó đi.
Mười lăm năm sau, Thánh Du vì bị bệnh mà chết ở kinh sư, ta đã đến khóc điếu mà viết cho ông bài minh, nhân đó tìm tòi ở trong nhà ông, thấy được cuốn di cảo hơn nghìn thiên, kể cả những bài ông cất đi lúc trước, chọn lựa những bài hay nhất trong số đó được 677 thiên, làm thành 15 quyển. Than ôi! Ta đã bàn kĩ về thơ của Thánh Du rồi, cho nên không nói lại nữa. Âu Dương Tu ở Lư Lăng viết bài tự.
Nguyễn Thanh Lộc dịch
Nguồn: Ngô Sở Tài, Ngô Điều Hậu biên tập, Nhóm Lý Mộng Sinh, Sử Lương Chiếu chú thích (2001), Cổ văn quan chỉ thích chú (Quyển thượng), Thượng Hải cổ tịch xuất bản xã xuất bản, Thượng Hải.