DỊCH THUẬT: TỐNG TRƯƠNG THÚC HẠ TÂY DU TỰ (送張叔夏西遊序 – BÀI TỰ TẶNG TRƯƠNG THÚC HẠ ĐI TÂY) – ĐỚI BIỂU NGUYÊN 戴錶元

Đái Biểu Nguyên (1244 – 1310), là một nhà văn đời Nguyên. Tự là Soái Sơ 帥初, còn một tự nữa là Tằng Bá 曾伯, hiệu là Diệm Nguyên 剡源, người Phụng Hoá, Khánh Nguyên (Nay thuộc Chiết Giang). Bảy tuổi đã có thể viết văn, thơ văn hay lạ uẩn súc. Giữa cuối đời Nam Tống đỗ tiến sĩ, thọ chức giáo thụ phủ Kiến Khang. Năm 61 tuổi năm thứ tám đời Nguyên Đại Đức (1304), được người tiến cử làm giáo thụ ở Tín Châu, lại được điều đi Vụ Châu, nhân cáo bệnh mà từ chức. Bàn về thơ chủ trương Tông Đường Đắc Cổ 宗唐得古 (Khái niệm “Tông Đường Đắc Cổ” do “Văn học sử triều Nguyên” của Viện Văn học thuộc Viện Khoa học xã hội Trung Quốc đưa ra), phong cách thơ thâm trầm thanh nhã, lời văn đa phẫn bi ưu ai phẫn. Có trước tác tập thơ Diệm Nguyên (Diệm Nguyên tập 剡源集).

Nguyên văn

玉田張叔夏與餘初相逢錢塘西湖上,翩翩然飄阿錫之衣,乘纖離(1)之馬,於是風神散朗,自以為承平故家貴遊少年(2)不啻也。垂及強壯,喪其行資。則既牢落偃蹇。嘗以藝北遊,不遇,失意。亟亟南歸,愈不遇。猶家錢塘十年。久之,又去,東遊山陰(3)、四明(4)、天台(5)間,若少遇者。既又棄之西歸。

於是餘周流授徒,適與相值,問叔夏何以去來道途若是不憚煩耶?叔夏曰:“不然,吾之來,本投所賢,賢者貧;依所知,知者死;雖少有遇而無以寧吾居,吾不得已違之,吾豈樂為此哉?”語竟,意色不能無沮然。少焉飲酣氣張,取平生所自為樂府詞,自歌之,噫嗚宛抑,流麗清暢,不惟高情曠度,不可褻企,而一時聽之,亦能令人忘去窮達得喪所在。

蓋錢塘故多大人長者,叔夏之先世高曾祖父,皆鐘鳴鼎食(6),江湖高才詞客姜夔堯章、孫季蕃花翁之徒,往往出入館谷其門,千金之裝,列駟之聘,談笑得之,不以為異。迨其途窮境變,則亦以望於他人,而不知正复堯張、花翁尚存,今誰知之,而誰暇能念之者!

嗟乎!士固復有家世材華如叔夏而窮甚於此者乎!六月初吉,輕行過門,云將改遊吳公子季札春申君之鄉,而求其人焉。余曰:唯唯。因次第其辭以為別。

Phiên âm

Ngọc Điền Trương Thúc Hạ dữ dư sơ tương phùng Tiền Đường Tây hồ thượng, phiên phiên nhiên phiêu a tích chi y, thặng tiêm ly chi mã, ư thị phong thần tán lãng, tự dĩ vi thừa bình cố gia quý du thiếu niên bất thí dã. Thùy cập cường tráng, táng kì hành tư. Tắc kí lao lạc yển kiển. Thường dĩ nghệ Bắc du, bất ngộ, thất ý. Cức cức Nam quy, dũ bất ngộ. Do gia Tiền Đường thập niên. Cửu chi, hựu khứ, Đông du Sơn Âm, Tứ Minh, Thiên Thai gian, nhược thiểu ngộ giả. Kí hựu khí chi Tây quy.

Ư thị dư chu lưu thụ tẩu, thích dữ tương trị, vấn Thúc Hạ hà dĩ khứ lai đạo đồ nhược thị bất đạn phiền da? Thúc Hạ viết: “Bất nhiên, ngô chi lai, bổn đầu sở hiền, hiền giả bần; y sở trí, trí giả tử; tuy thiểu hữu ngộ nhi vô dĩ ninh ngô cư, ngô bất đắc dĩ vi chi, ngô khởi lạc vi thử tai?” Ngữ cánh, ý sắc bất năng vô trở nhiên. Thiếu yên ẩm hàm khí trương, thủ bình sinh sở tự vi Nhạc phủ từ, tự ca chi, y ô uyển ức, lưu lệ thanh sướng, bất duy cao tình khoáng độ, bất khả tiết xí, nhi nhất thời thính chi, diệc năng lệnh nhân vong khứ cùng đạt đắc táng sở tại.

Cái Tiền Đường cố đa đại nhân trường giả, Thúc Hạ chi tiên thế cao tằng tổ phụ, giai chung minh đỉnh thực, giang hồ cao tài từ khách Khương Quỳ Nghiêu Chương , Tôn Quý Phiền Hoa Ông chi đồ, vãng vãng xuất nhập quán cốc kì môn, thiên kim chi trang, liệt tứ chi sính, đàm tiếu đắc chi, bất dĩ vi dị. Đãi kì đồ cùng cảnh biến, tắc diệc dĩ vọng ư tha nhân, nhi bất tri chính Hạ Nghiêu Trương, Hoa Ông thượng tồn, kim thùy tri chi, nhi thùy hạ năng niệm chi giả!

Ta hồ! Sĩ cố phục hữu gia thế tài hoa như Thúc Hạ nhi cùng thậm ư thử giả hồ! Lục nguyệt sơ cát, khinh hành quá môn, vân tương cải du Ngô công tử Quý Trát Xuân Giáp Quân chi hương, nhi cầu kì nhân yên. Dư viết: Dụy dụy. Nhân thứ đệ kì từ dĩ vi biệt.

Dịch nghĩa

Ngọc Điền Trương Thúc Hạ cùng ta ban đầu gặp nhau ở Tây Hồ, Tiền Đường, phong độ (Thúc Hạ) thong dong tự tại, (trên người) phơ phất tấm áo A Tích (áo làm bằng tơ mịn), cưỡi ngựa Tiêm Ly, lúc ấy, thần thái y tiêu sái phóng dật (xán lạn như thần), tự cho mình chẳng thua kém gì so với các vương tôn công tử con nhà trâm anh thế phiệt thời bình.  Lúc sắp đến độ thanh niên (sức dài vai rộng), để mất tư trang đi đường. Do đó, lưu lạc khốn đốn. Từng mang tài nghệ đi du thuyết mưu sinh tận vùng phía Bắc tuy nhiên không gặp thời, (lại) thất ý. (Thế là bèn) Vồn vã về Nam song lại càng thất chí. Bèn trở về nhà tại Tiền Đường ở trong mười năm. Lâu sau, lại bỏ đi, về Đông ngao du trong vùng Sơn Âm, Tứ Minh, Thiên Đài, hầu như (đi đâu cũng) hiếm khi gặp được hạnh vận. Lại bỏ đi về hướng Tây.

Lúc này ta chu du thâu nhận đồ đệ, vừa may gặp được y, ta mới hỏi Thúc Hạ cớ sao y bôn ba tứ xứ như thế mà dường như (tâm thế) chẳng cảm thấy phiền mỏi? Thúc Hạ đáp: “Không phải như thế, tôi đến, bởi vốn dĩ muốn nương nhờ người hiền, nhưng kẻ hiền thì nghèo, nương nhờ người trí mà người trí thì chết rồi; dẫu ít khi gặp vận nhưng không có lấy nơi nào ổn định đặng tôi cư ngụ, do đó bất đắc dĩ, tôi phải rời đi, há muốn hành xử thế này đâu?” Nói xong, sắc diện ủ ê, ý tứ buồn bã. Một lúc sau, nốc rượu ừng ực, ý khí thông căng thư giãn, lấy mấy câu nhạc phủ tự làm thuở bình sinh mà tự ca tự hát, oán thán uất tức, lưu loát thanh nhã, nếu không phải là người tài tình cao ngạo, lòng dạ khoáng đạt, không thể theo kịp mà hễ đã nghe thì có thể khiến người quên đi cả khốn ách – hiển quý cả những chuyện được – mất.

Đại để Tiền Đường vốn dĩ có nhiều bậc đại nhân trưởng thượng, cao tằng tổ phụ đời trước của Thúc Hạ đều là những người “chung minh đỉnh thực” (giàu sang quý hiển),  những từ nhân (thi nhân) tài cao giang hồ như Khương Quỳ Nghiêu Chương, Tôn Quý Phiền Hoa Ông, vẫn thường ra vào quán cốc nhà y, y trang trị giá nghìn vàng, sính lễ la liệt ngựa xe, cười nói đắc chí, song không tự cho mình hay, đặc biệt. Đến đời ông thì cùng đường tuyệt lộ, cảnh cũ đổi thay phải lấy việc trông mong cầu cạnh nơi người dưng kẻ lạ, cũng không rõ nếu được gặp lại Nghiêu Trương, Hoa Ông còn sống thì lúc bấy giờ, ai có thể hiểu được y, ai có thể rảnh rỗi thương cảm tưởng nhớ y! 

Than ôi! Kẻ sĩ vốn có gia thế tài hoa như Lý Hạ mà nghèo hơn Lý Hạ ôi! Ngày đầu tháng sáu, y ăn mặc sơ sài đến thăm hỏi, nói sắp chu du đến quê hương của Quý Trát, Xuân Giáp Quân mà cầu cạnh những người tri ngộ (khác) ở nơi đó. Tôi nói: Vâng vâng. Bèn sắp xếp lại thứ tự lời ông (tỏ bày) thành bài tự văn gửi tặng Thúc Hạ ngõ hầu tạ từ.

(Nguyễn Thanh Lộc dịch)

Nguồn: https://www.kekeshici.com/guji/mingpian/39661.html

Chú thích

(1) 纖離 (Tiêm ly): Tên một giống ngựa hay nổi tiếng ở các nước phương Bắc. Lấy từ thiên Tính Ác trong Tuân Tử.

(2) 貴遊少年 (Quý du thiếu niên): Chỉ những bậc vương tôn công tử giàu sang vinh hiển còn trẻ tuổi nhưng không thuộc dòng dõi quan lại.

(3) 山陰 (Sơn Âm):Phía Bắc núi Hội Khể 會稽山.

(4) 四明 (Tứ Minh):Nay là thành phố Ninh Ba tỉnh Chiết Giang.

(5) 天台 (Thiên Thai): Nay là huyện Thiên Thai tỉnh Chiết Giang.

(6) 鐘鳴鼎食 (Chung minh đỉnh thực): Ngày xưa nhà phú quý tới bữa ăn thì phải đánh chuông để gọi người về ăn và khi ăn thì phải bày vạc lớn ra mà ăn. Hình dung đời sống xa hoa. Vương Bột 王勃: “Lư diêm phác địa, chung minh đỉnh thực chi gia” 閭閻撲地, 鐘鳴鼎食之家 (Đằng Vương Các tự 滕王閣序 – Cửa nhà giăng đầy mặt đất, đó là những nhà giàu sang rung chuông bày vạc khi ăn).

Leave a comment